Thế Giới Phật Giáo
Tìm kiếm nâng cao
  • Kinh Sách Nói & Video
  • Song ngữ Việt-Anh (Đối chiếu)
  • Thỉnh Kinh Sách MIỄN PHÍ
  • Máy TỰ ĐỘNG Đọc, Đánh Máy, báo lỗi tiếng Việt
  • Danh bạ Chùa & Tự Viện
  • Mục đích và Chủ trương
  • BuddhistHub.org (Anh ngữ)
  • Thế Giới Từ Thiện

Từ Điển Pāli-Việt (Tỳ-kheo Bửu Chơn)

Quyển Từ điển Pāli-Việt này bần tăng đã có ý định phiên dịch từ lâu, nhưng vì bận nhiều Phật sự và sức khỏe cũng yếu kém nên phải trì hoãn thời gian đã lâu.

Hiện nay, nhận thấy phong trào tìm hiểu giáo lý Phật Đà nhất là về Nam Tông, càng ngày càng phát triển. Những danh từ nhà Phật phần nhiều đều có liên quan đến Pāli, nhưng thấy chưa có quyển từ điển nào, dầu tóm tắt, cũng chưa có, để tra cứu những chữ hoài nghi hoặc không rõ nghĩa lý, nên bần tăng ráng cố gắng sưu tầm và phiên dịch ra Việt ngữ, nương theo quyển “Concise Pali-English Dictionary” của Đại đức A.P. Buddhadatta Mahathera và cũng có thêm vào ít chữ trong quyển Từ điển “Pali-English Dictionary” của Ông Rhys Davids đã giải rộng và đầy đủ, nhưng vì quá mắc mỏ và tốn kém nên không thể phiên dịch ra in cho hết được.

Tuy nhiên, quyển Từ điển này dù tóm tắt nhưng cũng đầy đủ ý nghĩa cho những chữ cần thiết trong kinh điển, để cho các nhà khảo cứu sưu tầm.

Sự biên soạn chỉ có một mình nên dù sao cũng không khỏi còn một vài chỗ sơ xuất, vậy xin chư Đại đức Cao Tăng cũng như các nhà bác học thấy có chỗ nào còn khiếm khuyết hoặc sơ sót xin hoan hỷ chỉ bảo, mách giùm hầu có dịp sửa chữa lại cho được tốt đẹp thêm trong nền văn học về “Từ ngữ”.

Phần công đức này xin hồi hướng cho tất cả chúng sinh trong ba giới bốn loài được thọ lãnh phước báu và mau phát bồ đề tâm để tu hành cho được mau thoát khổ. Và cũng cầu nguyện công đức này đến Ngài Đại đức Buddhadatta, tác giả biên soạn, thầy tổ và song thân được thọ lãnh và mau được siêu sanh nơi nhàn cảnh. Riêng phần công đức thì có Ông Đàm Tô nhận lãnh đánh máy, cô Mudiṭā nhũ danh Triệu Thị Ngọc Liên dò đọc, sửa chữa lại bản đánh máy và các chư Sư cũng như những người khác coi sửa chữa bản thảo (vì Từ điển Pāli rất phức tạp khó khăn không phải như những ấn phẩm khác) cho nên cần phải nhiều người trông nom sửa chữa thật kỹ lưỡng, vì vậy mà phải tốn rất nhiều công phu trong công việc ấn loát. Bao nhiêu những công đức ấy, cầu xin cho quí vị hữu công được nhiều phước báu, nhất là trí tuệ thông minh sáng suốt, kiếp nào sanh lên cũng gặp được Chánh pháp để tu hành mau đến nơi giải thoát đại Niết-bàn.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Tỳ Khưu Bửu Chơn (Nāga Mahā Thera)

Nguyên Tăng thống GHTGNTVN, kiêm Cố vấn tinh thần Phật giáo Thế giới.

(Soạn xong tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi Phổ Minh Tự, lúc 19 giờ, ngày 19-05-1975 / PL. 2519)

---

 LỜI NÓI ĐẦU

Những động từ của tiếng Pāli khác hẳn với động từ của Âu Châu. Ở Âu Châu họ thường dùng động từ vị biến cách [infinitive] và khởi sự với ngôi thứ nhất. Còn động từ Pāli lại ít dùng đến vị biến cách và khởi sự bằng ngôi thứ ba số ít của thì hiện tại.

Do nhiều cách để phối hợp bất định phân từ và quá khứ phân từ, nên tôi phải nói ở đây hai cách dưới mỗi động từ. Về quá khứ phân từ có khi phải để riêng ra khi nó có ý nghĩa không biểu lộ bằng động từ, hoặc khi nó rất khó hiểu từ đâu mà động từ ấy đến.

Thường thì tuyệt đối cách cuối cùng bằng tva và tvana thì phần nhiều không có thêm vào sau những động từ, nhưng có vài hình thức đặc biệt như: nikkhamma, pahāya, ucchijja được nêu ra. Tuy nhiên, không nên hiểu rằng những ngữ căn này không có hình thức cuối cùng bằng tva vàtvana.

Những chữ do từ nguồn gốc mà ra và cuối cùng bằng ta đều thuộc về nữ tính, chúng nó có những trung tính cách cuối cùng bằng tta và ttana, nhưng muốn thu gọn lại một hình thức duy nhất, là hoặc cuối cùng bằng ta và tta trong một chỗ mà thôi.

Những danh từ nam tính cuối cùng bằng ī khi đổi ra nữ tính cuối cùng bằng inī, như haṭṭhī →haṭṭhinī.

Nhiều danh từ cuối cùng bằng a, như kāka, miga, nāga thì cuối cùng nữ tính của nó bằng ī và một đôi khi bằng inī. Như: kāka có nữ tính kākī, miga → migī, nāga → nāgī, nāginī.

Có vài chữ cuối cùng như trên nhưng khi đổi ra nữ tính thì cuối cùng bằng ā hoặc ānī. Như:khattiya có nữ tính      khattiyā, khattiyānī, mātula →  mātulānī.

Những tính từ cuối cùng bằng vantu và mantu khi đổi ra nữ tính thì để bằng ī vào chỗ chữ u và có khi cũng bỏ chữ n của tiếp vĩ ngữ. Như: guṇvantu → guṇvantī, guṇavatī, saṭimantu → saṭimantī, saṭimatī.

Có hai hình thức của hiện tại phân từ, một cuối cùng bằng nta và bằng māna. Những hình thức bằng nta khi đổi ra nữ tính bằng ī và bằng māna thì đổi ra ā. Như: gacchanta → gacchantī, pacamāna → pacamānā.

Những hình thức của trung tính thì cũng đổi ra giống như nam tính.

Có vài nguyên căn khi đổi ra nữ tính thì phải thay vào ikā thay vì aka. Như: dāyaka → dāyikā, ārocaka → ārocikā, pācaka → pācikā.

Vì vậy mà tiếng Pāli thay đổi ra rất nhiều hình thức, nên coi thêm văn phạm Pāli và khi phiên dịch phải hết sức thận trọng vì nhiều hình thức giống nhau nhưng ý nghĩa lại khác hẳn nhau.

Nāga Mahāthera ‒ Tỳ khưu Bửu Chơn

Nguyên Tăng Thống Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam

Cố vấn Tinh thần Hội Phật giáo Thế giới

Tháng 3, PL. 2521 - DL. 1976


Xem thêm & Nguồn:

https://www.thuviennguyenthuy.com/wp-content/uploads/2017/02/tu-dien-Pali-Viet.pdf

https://pubhtml5.com/uuosd/eozx

https://www.vietheravada.net/tudien/paliviet-buuchon.htm

  • Bạn đang ở:  
  • Trang chủ
  • TỪ ĐIỂN
  • Từ Điển Pāli-Việt (Tỳ-kheo Bửu Chơn)

Trở lên trên

© 2023 Thế Giới Phật Giáo