Tìm hiểu đại cương toát yếu Thắng Pháp Tập Yếu Luận [Abhidhammatthasangaha] (Thích Phổ Huân)
GIỚI THIỆU
Tất cả giáo điển của Như Lai chỉ có một tâm điểm là làm cho chúng sinh giác ngộ, chứng đạo đạt đến giải thoát vượt qua sinh tử. Và trong muôn vạn lời dạy của Ngài hiển minh cao thấp sâu cạn tùy vào nhận thức căn tánh của mỗi chúng sinh. Điều đó nói lên giáo lý Như Lai là chân lý khế hợp trong mọi hoàn cảnh không gian thời gian mà đối tượng là con người, con người của tất cả mọi thời đại từ vô thủy đến nay.
Trên nguyên lý như vậy, Kinh Phật là lời dạy của Thế Tôn đã được chư Thánh chúng đệ tử kết tập, rồi lý giải làm sáng tỏ nền giáo điển Như Lai huy hoàng siêu việt hơn. Việc làm này đã tạo thành những tạng luận vi diệu giải bày thắng nghĩa giải thoát; những vị luận sư nổi tiếng có công như vậy, điển hình như Ngài Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước...
Nơi đây chúng ta chỉ sơ lược đại ý nội dung của tạng thư A Tỳ Đàm của Ngài A Nậu Lâu Đà (Annuruddha) biên soạn, là vị Tỷ Khưu người Ấn sống thế kỷ VIII Tây lịch. Tập này toát yếu tóm lược giảng dạy cho các vị Tăng sinh theo Phật Giáo Nam Phương học tập, trước khi đọc vào 7 bộ luận thư cơ bản như: 1) Pháp Tụ Luận (Dhamma Sanghani), 2) Phân Biệt Luận (Vibhanga), 3) Giới thuyết Luận (Dhatu Katha), 4) Nhân Thi Thiết Luận (Pudgala Pannati), 5) Song Đối Luận (Yamaka), 6) Pháp Trí Luận (Patthana), 7) Thuyết sự Luận (Kathavasthu).
Các Luận thư (Abhidharma) như vậy có thuyết kể rằng chính do Thế Tôn thuyết giảng cho thân mẫu của Ngài tại cung trời Đao Lợi là từng trời thứ 33 (Heaven of the Thirty- Three). Lại cũng được cho rằng luận này được chư vị Luận sư uyên bác biên soạn; tất nhiên việc biên soạn này phải căn cứ theo lời dạy của Thế Tôn, và nhất là phải phát huệ chứng pháp mới biên soạn được, chứ không thể dùng kiến thức phân biệt thế gian (knowledge) mà hình thành được bộ Luận Vi Diệu này.
Tuy nhiên thế nào đi nữa Abhidharma vẫn là giáo điển giải thoát là điều mà Thế Tôn gọi là phương tiện như chiếc thuyền đưa chúng sanh qua bờ giải thoát.
ĐỊNH NGHĨA:
Tiếng phạn gọi là Abhidhamma, tiếng Pali là Abhidharma. Từ nơi danh từ này tách ra hai chữ: Abhi là thù thắng, vi diệu, sâu thẩm... và Dhamma là pháp. Pháp bao gồm muôn sự muôn vật, nhưng ở đây riêng nghĩa là lời dạy của Như Lai.
Trung Hoa dịch ra nhiều từ như: Thắng pháp, Vô tỷ pháp, Đại pháp, Đối pháp... nhưng tất cả cũng chỉ nói lên đây là pháp vi diệu không thể tìm thấy pháp nào cao hơn hay so sánh bằng; và mục tiêu duy nhất của pháp này là giúp hành giả đạt được trí tuệ tối thượng.
NỘI DUNG CỦA VI DIỆU PHÁP
Vi Diệu Pháp xuất hiện là do có đối tượng người và vật, hay nói đúng hơn là do chánh báo và y báo của một chúng sanh mang hình ảnh một con người có tánh giác cao. Hay đúng hơn nữa chính sự nhận định sai lầm của con người về tâm và cảnh nên Vi Diệu Pháp ra đời, và sự ra đời để đưa con người nhận chân ra sự thật của thế giới nội tâm và ngoại giới. Và thế giới nội tâm và ngoại giới cũng phát xuất từ trong tâm của chúng sanh.
Ở đây Vi Diệu Pháp đã làm một việc phân tích mở bày sự thật về con người, về đối tượng vạn pháp mà con người kinh nghiệm trải qua. Sự trình bày được cụ thể hóa bằng hình ảnh nhân quả nghiệp báo qua hành nghiệp và cảnh giới chúng sanh đang thọ nhận, chứ không phải là những giải bày bằng ngôn ngữ trừu tượng mơ hồ. Thí dụ do những tâm sở bất thiện nên sanh vào cảnh giới dục ái, thuần theo hành nghiệp ái dục từ quá khứ mà ra, và cảnh giới Niết Bàn thanh tịnh tuyệt đối cũng do từ tâm sở luôn hành thiện cho đến đạt được tuyệt đối gọi là siêu thế tâm (supra-mundane consciousness). Cho nên cũng có thể gọi đây là một môn triết lý hiện tượng học (phenomenology) về tâm và cảnh của chúng sanh; vì đây giải thích và đưa ra những kinh nghiệm những hành quả xảy ra trước và sau con người.
Để tìm hiểu và đi vào phân giải tiến trình pháp học này. Vi Diệu Pháp đã phân định Tâm con người phát động theo bốn thực tại như sau:
- TÂM (Consciousness)
- TÂM SỞ (TÂM PHỤ TÙY) (Cetasika – Mental State)
- SẮC PHÁP (Matter)
- NIẾT BÀN (Nibbana)
Bốn thực tại này là chân lý, chân đế sự thật làm sáng tỏ nguyên nhân của một chúng sanh hiện hữu, qua hai phần tinh thần và vật chất mà thuật ngữ tâm lý học nhà Phật gọi là danh, sắc. Danh là tinh thần (thọ, tưởng, hành, thức), sắc là thể chất cơ bản thân thể con người (đất, nước, gió, lửa). Chính đây là nguyên lý cơ bản sinh khởi vấn đề của một dòng sống khổ đau hay hạnh phúc. Và như vậy nếu hiểu rõ nền tảng sinh khởi qua bốn thực tại này thì cái gọi là một dòng sống sẽ đạt đến một sự tự tại vượt lên, đó là thực tại thứ tư, là Niết Bàn chấm dứt sự sinh tử luân hồi. Ngược lại nếu không hiểu, tất nhiên và tuyệt đối tất cả mọi diễn trình hoạt động của thế gian từ tâm đến thân sẽ không ra khỏi luân hồi, và như vậy phải chịu theo cái gì là khôå cái gì là hạnh phúc thật tạm bợ của thế gian. Cho nên bốn sự thật này mà tạng thư gọi là tối hậu không giống và không theo quy ước đặt định của thế gian tương đối. Như thế không hiểu Vi Diệu Pháp tức bốn thực tại chân đế này, con người chúng ta trở thành mê mờ bám víu nô lệ vào tất cả những giả tạm đang hiện ảnh chung quanh đời sống, và điều đó tạo nên cuộc luân hồi chẳng bao giờ dứt đoạn.
Xem thêm & nguồn:
https://www.tuvienquangduc.com.au/coban-2/409vidieuphap.html