Nghiên cứu so sánh văn bản kinh Pháp Cú chữ Hán và chữ Pali (Thích Nữ Nguyệt Chiếu)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát. Từ lâu kinh Pháp Cú đã trở nên quen thuộc với Tăng Ni và Phật Tử Việt Nam ngay những câu mang tính ca dao, dân ca làm cho mọi người dễ đọc, dễ nghe, dễ học, dễ hiểu v.v...dần dần có sự ăn sâu, bám rễ vào lòng Dân Tộc, góp phần không nhỏ trong việc xây dựng, nâng cao phẩm giá con người. Từ đó những đóa hoa đạo đức-trí huệ của Phật Giáo vốn có sắc và hương thơm ngát lại là người bạn cố tri luôn đem đến nguồn cảm hứng, an ủi, nâng đỡ, hộ trì và cải thiện đời sống tâm linh trong những bước thăng trầm của cuộc sống. Trong suốt 45 năm thuyết giảng giáo pháp, Đức Phật đã dùng vô số phương pháp để hóa độ chúng sanh. Những phương pháp ấy đều có chứa những bài kệ ngắn gọn, hàm xúc, thú vị, tinh túy, hữu ích và đúng theo chân lý. Đó chính là những câu Pháp Cú nằm tản mát trong Kinh- Luật- Luận thuộc Nam Truyền và Bắc Truyền. Do vậy, sau khi Đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn thì kinh Pháp Cú trở thành áng văn bất hủ cho cả hai giới Tại Gia và Xuất Gia.
Chính sự lan truyền rộng rãi của kinh Pháp Cú nên dần dần dễ dẫn tới việc sai khác về ngôn từ và ý nghĩa của kinh so với nguyên bản. Vì thế, khi mới xuất gia học đạo liền bắt gặp trong quyển "Sa Di Luật Giải" của Hòa Thượng Hành Trụ, phần Qui Sơn Cảnh Sách, trang 497 có đoạn viết:
"Đức Như Lai diệt độ chưa bao lâu, có một ông Tỳ Kheo, lầm tụng bài kệ trong kinh Pháp Cú: "Nếu người sống trăm tuổi, chẳng thấy con Hạc già dưới nước, chẳng bằng sống một ngày mà đặng thấy rõ đó" khi ấy ngài A Nan Tôn giả nghe rồi nguôi thản than rằng: "Chánh Pháp Như Lai sao mà diệt mau lắm vậy!" Rồi nói với Thầy Tỳ Kheo kia rằng: Thưa Huynh! Đức Phật, Ngài nói: "Nếu người sống trăm tuổi chẳng thấy sanh diệt, chẳng bằng sống một ngày mà thấy rõ đó". Ông Tỷ Kheo ấy bấy giờ trở về thuật lại với Bổn sư, sư nói: "Ơi! Ông A Nan già cả, nói hay lầm lộn không nên tin vậy. Ngươi cứ về tụng như trước đi."
Ôi! Xét như xưa đời chánh pháp hãy còn lầm lộn như thế đó. Huống đời bây giờ cách Phật đã xa, không gần Thầy hay Bạn giỏi, làm sao nói ra cho nhằm Kinh Luật ấy ư?"
Qua đoạn trích trên, người viết nhận thấy nguyên nhân có sự nhầm lẫn giữa chữ "sanh diệt" với "hạc già" là xuất phát từ sự truyền khẩu của kinh, truyền từ người này qua người nọ nên dẫn đến sự sai khác. Như theo bản PàLi câu 113 trong Phẩm Ngàn, tức là câu 14 của bản phụ lục ở phía sau cho biết: "Yo ca vassa- satam jìve apassam udaya – vyayam" (Ai sống một trăm năm mà không thấy sanh tử). Và theo bản Prakrit câu 317 cho thấy: "Ya ji vasa – s ado jivì apas u udaka - vaya". (Ai sống một trăm năm mà không thấy sanh tử). Do lẫn lộn chữ "Udaka-vaya" dịch là "Sanh tử" đọc nhầm thành "Udaka-bakam" dịch là "Hạc nước". Sự đọc nhầm này cũng do một phần sau khi Đức Phật nhập diệt, phần đông các vị Tổ về sau đều là gốc Bà La Môn nên họ cứ tin tưởng và chấp chặt vào ngôn ngữ của mình, không để ý đến nghĩa của chữ dẫn đến sự nhầm lẫn như thế.
Và Thầy Lê Mạnh Thát cũng có bàn về vấn đề này trong quyển Tư Tưởng "Thử bàn về một phương pháp phê bình văn học", bộ IV, số 2 (1971), tr 101-112; số 3 (1971), tr 127 – 134; số 6 (1971), tr 85- 106. Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh – Sài Gòn.
Từ sự nhầm lẫn trên, người viết hằng suy nghĩ : Tất cả Tăng Ni sinh chúng ta đều mong sao tự mỗi cá nhân trước hết phải nhìn nhận đây là vấn đề, là mấu chốt cần phải tìm hiểu và nghiên cứu kỹ trước những kinh sách về Phật giáo thật sự có tính cách lợi ích cho sự hành đạo giải thoát hay không? Có như vậy, chúng ta mới trang bị nền móng vững chắc cho sự hành đạo giải thoát ở chính ngay con người mình. Từ sự nhận định tổng quát như vậy mà các nước trên thế giới đều đã nghiên cứu so sánh Kinh Pháp Cú như S. LéVi, L Apramàdavarga. Etude sur les recensions des-Dharmapada, JAS (xx) 1912, 203-94; và người nghiên cứu The Gàndhàrì by John Brought (London, Oxford University Press, 1962); còn ở Việt Nam nước ta thì chưa thấy ai so sánh kinh Pháp Cú. Đây là lý do người viết chọn đề tài: "Nghiên cứu so sánh văn bản kinh Pháp Cú chữ Hán và chữ Pàli."
Kinh Pháp Cú có tầm quan trọng trong kho tàng Pháp Bảo Phật Giáo, nên được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Hầu hết các ngôn ngữ quan trọng trên thế giới đều có bản dịch kinh Pháp Cú và nhiều tác giả đã xem tập này như một Thánh Thư của Đạo Phật. Riêng tiếng Việt, hiện nay Kinh Pháp Cú có khá nhiều bản như sau:
- Kinh Pháp Cú do H.T Thích Trí Đức dịch từ bản Hán văn của Pháp Sư Liễu Tham (từ bản Pàli sang Hán). Bản này được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959 và đến nay được tái bản nhiều lần.
- Kinh Pháp Cú do Á Nam Trần Tuấn Khải dịch từ bản Anh-Hán Đối Chiếu Hòa dịch 1963 của soạn giả Thường Ban Đại Định.
- Kinh Pháp Cú do Phạm Kim Khánh dịch từ Pàli-Anh của Đ.Đ Narada người Tích Lan, được xuất bản năm 1971.
- Kinh Pháp Cú do H.T Thích Minh Châu dịch từ bản Pàli, được trường Cao Cấp Phật học Việt Nam ấn hành 1989, nay là Học Viện Phật Giáo Việt Nam.
- Thi Hóa Pháp Cú Kinh do Tịnh Minh dịch từ bản tiếng Anh của Đ.Đ. Narada, 1990.
Hầu hết các văn bản trên đều có nguồn gốc từ bản Tích Lan 26 phẩm 423 bài kệ do các dịch giả dịch từ tiếng Hán, tiếng Pàli, tiếng Anh. Ngoài ra, kinh Pháp Cú còn có nhiều dị bản như:
- Hán dịch Pháp Cú kinh. Bản này do Ngài Pháp Cứu người Ấn ở thế kỷ thứ I trước Công Nguyên tuyển tập, nhóm Ngài Duy Kỳ Nan đời Ngô Tam Quốc dịch sang Hán, được thâu vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. ĐTK 210 tờ 559 a1 – 575 b10.
- Phạn bản Ưu Đà Na phẩm, còn gọi Ô-Đà-Nam Phẩm, theo câu Xá Luận Quang Ký quyển 1 nói cũng do Ngài Pháp Cứu tuyển tập, có Phạn bản lưu hành ở Ấn Độ.
- Tạng dịch Phạn bản Ưu-Đà-Na phẩm với tên là Che-du-brjod-pahi tshoms, nằm trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng.
Kinh Pháp Cú ngoài văn bản và dị bản như đã kể trên, lại có kinh Pháp Cú Thí Dụ với những dị bản như sau:
- Pháp Cú Kinh chú (Dhammapada-tthakathà) của Ngài Phật Âm (Buddha-Ghosa), thế kỷ thứ V viết, bằng văn Pàli.
- Hán dịch Pháp Cú Thí Dụ Kinh (Thuộc ngữ hệ Pàli) cũng chính để giải thích ý nghĩa, nhân duyên truyện tích của kệ Pháp Cú.
- Hán dịch Xuất Diệu Kinh do Ngài Tăng Già Bạt Trừng và Trúc Phật Niệm dịch vào năm 398.
- Tạng dịch Ưu-Đà-Na Phẩm Chú Giải (Che-du-brjod-pahi tshoms-Kyirnam-parthrelpa).
Các bài kệ Pháp Cú Thí Dụ này cũng dịch ra tiếng Việt như:
- Kinh Pháp Cú Thí Dụ, Dịch giả Thích Minh Quang, nhà xuất bản TP. HCM-1994.
- Kinh Pháp Cú Thí Dụ, Dịch giả Thích Thiện Phát, nhà xuất bản TP. HCM-1997.
- Chú Giải Kinh Pháp Cú (Dhammapàdatthakathà). Tác Giả: Bhadantàcàriya Buddhaghosa. Dịch Giả: Trưởng Lão Pháp Minh, nhà xuất bản TP. HCM-1997
- Trích Truyện Pháp Cú, Dịch Giả T.V.Viên Chiếu, nhà xuất bản TP. HCM-2000.
Vì vậy, khi đi vào nghiên cứu so sánh kinh Pháp Cú, người viết thật vô cùng ngần ngại với số văn bản và dị bản khá nhiều. Muốn có cái nhìn nhất quán về lời Phật dạy, người viết quyết chọn hai văn bản có cơ sở: 1) Kinh Pháp Cú - nguyên tạng Pàli do H.T. Thích Minh Châu dịch; 2) Kinh Pháp Cú Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, ĐTK 210 tờ 559 a1-575 b10, để so sánh sự giống nhau và khác nhau như thế nào. Tại sao có sự dị biệt này? Đây là vấn đề mà người viết cần muốn tìm hiểu về giáo lý nguyên thủy để làm ngọn đuốc soi đường dẫn lối cho hành giả đi đến giải thoát, giác ngộ như Đức Phật từng dạy:
Kẻ mất ngủ cho rằng đêm rất dài, người lữ khách mệt mỏi cho rằng đường hãy còn xa thế nào? Thì cũng như thế ấy, kẻ nào chưa tìm được chân lý, hằng phải bị sanh tử luân hồi trong thời gian vô tận." - Dhammapada- kệ số 60
Sự thật, với tinh thần đi tìm một giá trị đích thật về kinh Pháp Cú mà tập tiểu luận này được ra đời. Vả lại, cũng có duyên may được học dưới mái trường Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thành Phố Hồ Chí Minh, lại được gặp Giáo Sư Tiến Sĩ Lê Mạnh Thát đồng ý hướng dẫn đề tài này, nên có cơ hội để hoàn thành tốt tiểu luận. Với sự rộng lớn của Đề Tài, người viết xin chỉ tập trung một số bài tụng phổ biến nhất trong các phẩm của kinh Pháp Cú.
Mặc dù, nổ lực hết sức mình và cố gắng rất nhiều trong khi viết nhưng không sao tránh khỏi nhiều điều thiếu sót trong việc tìm hiểu và trình bày lời Phật dạy. Kính mong Giáo Sư hướng dẫn cùng Chư Tôn Đức, các bạn đồng học, chư vị thiện tri thức từ bi hoan hỷ chỉ giáo để kiến thức Phật Học được tăng bổ.
Phước Viên Tự, ngày 17/12/2000.
Kính bút
Ni sinh Thích Nữ Nguyệt Chiếu (Nguyên Anh)
Xem thêm & nguồn:
https://www.budsas.org/uni/u-kinh-phapcu-ev/dhp-nc01.htm
https://hoavouu.com/a25246/nghien-cuu-so-sanh-van-ban-kinh-phap-cu-chu-han-va-chu-pali